Hi quest ,  welcome  |  sign in  |  registered now  |  need help ?
Showing posts with label KHOA HỌC. Show all posts
Showing posts with label KHOA HỌC. Show all posts

NASA cùng Stanford phát triển hệ thống dò sóng hấp dẫn bằng nguyên tử

Written By Unknown on 10.29.2012 | 5:30 PM

 
  Hình ảnh mô phỏng sóng hấp dẫn được tạo nên từ một biến động của một hệ sao đôi.

Sóng hấp dẫn là một trong những chìa khóa quan trọng của ngành vật lý. Được dự đoán bởi nhà vật lý học thiên tài Albert Einstein vào năm 1916 qua thuyết tương đối, sóng hấp dẫn có thể giúp các nhà khoa học lý giải nhiều điều bí ẩn về nguồn gốc của vũ trụ nếu như họ có thể phát hiện ra chúng. Vì vậy, các nhà nghiên cứu tại đại học Stanford và trung tâm du hành không gian Goddard của NASA đã phát triển một kỹ thuật đo giao thoa nguyên tử mới, đủ nhạy để có thể lần đầu tiên ghi lại sóng hấp dẫn.

Sóng hấp dẫn là những gợn sóng xuất hiện tại thể liên tục không gian-thời gian do các sự kiện lớn trong vũ trụ gây ra chẳng hạn như một vụ va chạm giữa các ngôi sao khổng lồ hoặc vụ nổ Big Bang. Khi sóng được tạo ra thì đó cũng là lúc vũ trụ rung lên như một cái chiên. Nếu được nghiên cứu, những con sóng này có thể cung cấp những thông tin quý giá cho các nhà khoa học về mọi thứ, từ lỗ đen cho đến khoảnh khắc đầu tiên của vụ nổ Big Bang.

Vấn đề đối với các nhà khoa học là sóng hấp dẫn rất "yếu" và khi Trái Đất đi qua khu vực có sóng hấp dẫn, nó chỉ giãn ra rồi co lại trong một kích thước chỉ bằng chiều rộng của một nguyên tử. Do đó, không có gì ngạc nhiên khi những phản hồi siêu nhỏ của sóng hấp dẫn rất khó để các hệ thống nhạy nhất hiện nay phát hiện. Điều mà nhóm nghiên cứu Stanford/Goddard đang cố gắng thực hiện là kết hợp với công ty AOSense, Inc có trụ sở tại Sunnyvale, California để phát triển một hệ thống đo giao thoa sử dụng các nguyên tử thay vì ánh sáng siêu nhạy.

Hệ thống laser dải rộng giúp phát hiện sóng hấp dẫn.

Máy đo giao thoa là một thiết bị có thể phát hiện những thay đổi rất nhỏ với độ chính xác cao. Loại máy đo giao thoa phổ biến được trang bị trong các phòng thí nghiệm thường sử dụng ánh sáng, ngoài ra sóng radio, tia X và nhiều loại sóng khác cũng có thể sử dụng được. Nguyên lý cơ bản của máy đo giao thoa là một tia sáng sẽ được chiếu qua một bộ phân chùm và được chia thành 2 chùm tia mới. Trong đó, một chùm tia sẽ phản xạ khỏi một thấu kính được đặt cố định; từ đó nó di chuyển đến một camera hoặc một máy dò. Chùm tia còn lại sẽ chiếu qua một thứ gì đó mà các nhà khoa học muốn đo. Sau đó phản xạ lại một thấu kính thứ 2, dội ngược trở lại về bộ phân chùm và hướng thẳng vào một camera hoặc máy dò. 2 chùm tia sẽ giao thoa với nhau khi chạm trán, qua đó tạo nên một hình mẫu giao thoa.

Từ đó, nếu có điều gì làm thay đổi một trong các chùm tia, chẳng hạn như khoảng cách di chuyển của chùm tia bị thay đổi bởi những phân mảnh cực nhỏ, thay đổi này sẽ thể hiện ngay trên hình mẫu giao thoa và các nhà khoa học có thể suy ra sự thay đổi này lớn như thế nào. Độ nhạy của các hệ thống phụ thuộc vào độ dài bước sóng sử dụng, khoảng cách đường đi của sóng và độ ổn định của hệ thống.

Đối với hệ thống giao thoa nguyên tử, nhóm nghiên cứu Stanford/Goddard đang khai thác một cơ chế lượng tử khá kỳ quặc trong đó nhấn mạnh rằng: nếu như các sóng ánh sáng có thể hoạt động như các hạt được gọi là photon thì ngược lại nếu một nguyên tử được làm lạnh gần bằng 0, nó sẽ mang những tính chất tương tự của sóng.

Tháp thả cao 10 m tại đại học Stanford.

Những gì mà nhóm nghiên cứu sẽ thực hiện là đưa một đám mây chứa các nguyên tử Rubidium (Rb) trung hòa vào trong một tháp cao 10 m được dựng tại tầng hầm của phòng thí nghiệm vật lý đại học Stanford. Khi đám mây nguyên tử rơi từ đỉnh tháp xuống dưới, chúng sẽ được bắn phá bởi các tia laser để làm lạnh và khiến chúng tản ra. Do các tính chất đặc biệt của cơ học lượng tử, các nguyên tử Rb hoạt động như một tia sáng giao thoa dội ngược trở lại, các tia laser sẽ tạo thành một chiếc máy dò đóng vai trò như bộ phân chùm và thấu kính, trong khi các nguyên tử sẽ phát ra các "sóng vật chất" nhờ được đưa về trạng thái "chồng lên nhau" (superposition).

Kết quả cuối cùng là tạo thành một hệ thống đo giao thoa có thể phát hiện những thay đổi chỉ 1 picomet (= 1 x 10^-9 mm). Để dễ hình dung hơn, một nguyên tử Heli có bề rộng chỉ 62 picomet.

Nhóm nghiên cứu hy vọng thiết bị này không chỉ đủ nhạy để có thể phát hiện sóng hấp dẫn mà còn có thể được sử dụng trên hệ thống dẫn đường siêu chính xác của máy bay, tàu ngầm và các vệ tinh khám phá thiên thể. Nếu công nghệ trên được chứng minh thành công, nhóm nghiên cứu sẽ lên kế hoạch áp dụng nó vào một sứ mạng không gian bao gồm 3 vệ tinh bay theo một đội hình tam giác với khoảng cách từ 500 đến 5000 km để tạo nên một hệ thống đo giao thoa nguyên tử thậm chí còn nhạy hơn.

Theo: Gizmag; NASA
5:30 PM | 0 comments

Bộ năng lượng Hoa Kỳ phát triển công nghệ tái chế đất hiếm từ nam châm

Con người đã trải qua thời kỳ sử dụng tài nguyên thiên nhiên một cách hoang phí từ nguyên vật liệu, khoán sản, năng lượng hoá thạch... Nay thì tới lúc chúng ta đang đối mặt với nguy cơ thiếu hụt những yếu tố đó trong tương lai gần. Thị trường đất hiếm cũng không ngoại lệ, trước đây nguồn cung mặt hàng này vốn dồi dào, thì hiện tại nó đang bị cắt giảm do chính sách hạn chế xuất khẩu ra thế giới của Trung Quốc, trong khi các mỏ lớn tại Mỹ và Úc chưa kịp mở cửa trở lại. Sự khan hiếm nguyên liệu đầu vào gây khó khăn không nhỏ cho các công ty công nghệ cao và hậu quả là giá thành các sản phẩm bị đẩy lên gấp khá nhiều. Trong nỗ lực chung nhằm giải quyết vấn đề, các nhà khoa học ở phòng thí nghiệm Ames trực thuộc Bộ năng lượng Hoa Kỳ vừa cho biết họ đã thành công trong việc tái chế các nguyên tố đất hiếm vốn được sử dụng ở các nam châm. Trong thử nghiệm mới nhất, nhóm nghiên cứu đã tiến hành tách neodymium cùng hai nguyên tố đất hiếm khác từ nam châm từ cũ, sau đó họ tái sử dụng nó trong các chu trình chế tạo nam châm mới. Kết quả kiểm tra cho thấy đất hiếm tái chế được cho hiệu quả tương đương với sản phẩm được tinh chế từ các mỏ quặng.


Được biết, nghiên cứu tái chế đất hiếm đã được phòng thí nghiệm Ames tiến hành từ những năm 1990. Trong những thí nghiệm đầu tiên, các chuyên gia đã sử dụng magiê lỏng để tách một nguyên tố đất hiếm là neodymium khỏi các mảnh nam châm làm từ hai kim loại khác là sắt và Bo (nguyên tố có số thứ tự thứ 5 trong bảng tuần hoàn). Tuy nhiên lúc ấy, mục đích của họ là đưa hỗn hợp magiê-đất hiếm vào sản xuất trực tiếp các nam châm mới chứ không phải tách ra đất hiếm nguyên chất. Ngoài ra, do hiệu quả của kĩ thuật tái chế chưa cao cùng với việc giá đất hiếm còn khá rẻ nên công nghệ chưa thực sự được quan tâm ở thời điểm đó.



Trong vòng 3 năm trở lại đây, giá đất hiếm đã tăng gấp 10 lần, vì thế công nghệ tái chế trên đã được đưa trở lại với một vài cải tiến. Đầu tiên nhóm nghiên cứu lấy các thanh nam châm cũ chứa các nguyên tố đất hiếm như neodymium, praseodymium, dysprosium và loại bỏ các lớp mạ ngoài. Tiếp đến họ chuyển các thanh nam châm vào lò nung nóng, rồi đưa chúng vào các cối giã vật liệu tự động. Các thiết bị sẽ được điều chỉnh cho tới khi các mảnh nam châm được tán nhỏ tới kích thước 2-4 mm.

Ở giai đoạn tiếp theo các hạt nam châm được đưa vào một chiếc hộp có các mặt là lưới kim loại. Sau đó họ thả thêm các mẩu magie rắn vào trộn cùng. Giống như trong công nghiệp luyện kim, nhóm nghiên cứu nung nóng khối vật liệu bằng cách sử dụng sóng điện từ. Khi sóng tác động lên vỏ ngoài, nó sẽ gây ra dòng Foucault (Fu-cô), chính dòng điện này sinh nhiệt làm nóng khối chất. Do có nhiệt độ nóng chảy thấp hơn, magie sẽ hóa lỏng trước, trong khi các hạt nam châm vẫn còn ở dạng rắn.

Lúc đó, tại các bề mặt tiếp xúc giữa những hạt nam châm và magiê lỏng xuất hiện các hiệu ứng tương tác đặc biệt. Nhờ hiệu ứng này, các nguyên tố đất hiếm bắt đầu khuếch tán từ những hạt nam châm sang dung dịch magie lỏng. Nhóm nghiên cứu sẽ lọc các hạt nam châm và chất lỏng ra riêng rẽ. Tiếp đến, họ đổ dung dịch lỏng của magiê có chứa đất hiếm vào các khuôn và làm lạnh. Sau đó, các thỏi nhiên liệu mới được nung nóng tới khi magiê nóng chảy ra lần thứ hai. Khi đó người ta có thể tách đất hiếm ra khỏi magiê lỏng dễ dàng.

Sử dụng đất hiếm thứ cấp thu được, các chuyên gia đưa nó vào tái sử dụng để chế tạo các nam châm mới. Kết quả cho thấy các sản phẩm tạo ra có chất lượng tương đương với nam châm sử dụng đất hiếm sơ cấp (đất hiếm được khai thác từ mỏ). Hơn nữa, lượng đất hiếm tái chế thu được cũng có hàm lượng đủ lớn để có thể đưa nó vào sản xuất ở quy mô công nghiệp.

Nhóm nghiên cứu dự định sẽ phát triển tối ưu hơn nữa phương pháp của họ để nâng cao hiệu quả sử dụng thực tiễn trong thời gian tới.

Nguồn: Ames Lab
1:33 PM | 0 comments

SpaceX Dragon đã trở về trái đất an toàn

Sau khi tách khỏi trạm vũ trụ quốc tế ISS vào lúc 6h chiều qua, con tàu SpaceX Dragon đã trở về trái đất an toàn vào 02h22’ rạng sáng nay theo giờ Việt Nam, hoàn tất sứ mệnh tiếp tế đồ dùng và các thiết bị khoa học cho trạm ISS lần đầu tiên của nó. Trong lần trở về Dragon mang theo gần một tấn hàng hoá, bao gồm nhiều mẫu vật thí nghiệm hoá đông để dành cho các nhà nghiên cứu dưới mặt đất, cùng một số rác thải và các đồ dùng khác.

Khi hàng hoá đã được chất lên tàu và chuẩn bị sẵn sàng, chỉ huy trưởng của trạm ISS Sunita Williams cùng phi hành gia người Nhật Akihiko Hoshide đã điều khiển cánh tay robot và tách tàu Dragon ra khỏi trạm thành công vào lúc 20h29’ giờ Việt Nam, mất khoảng 2 tiếng rưỡi, khi đó thì trạm ISS đang bay ở khoảng cách chừng 408km trên Myanmar.

Ngay sau đó, bộ phận điều khiển bay của SpaceX ở Hawthorne, California, đã kiểm soát được Dragon, khởi động động cơ đẩy của tàu và đưa nó rời xa trạm ISS. Đến 01h28’ sáng 29/10/2012 (theo giờ Việt Nam), tàu Dragon bắt đầu giảm gốc trong 9 phút 50 giây, và đi vào vùng khí quy trái đất ở trên biển Thái Bình Dương.

Sau khi vượt qua được thử thách về nhiệt độ khi vào lớp khí quyển, Dragon bung 2 cái dù phao ở độ cao chừng gần 14km, để tiếp tục giảm tốc cho đến khi có thể thả 3 cái phao chính ở độ cao 3km. Lúc này, một đội ngũ của SpaceX đã chờ sẵn ở khu vực rộng 400km ngoài khơi bờ biển Baja California để chuẩn bị đón tàu Dragon đáp xuống.

Đến 02h16’ sáng 29/10/2012, đội ngũ kiểm soát của NASA đã thông báo qua hệ thống radio đến các phi hành gia trên trạm ISS rằng họ đã thấy 3 cái phao lớn của tàu SpaceX Dragon. Và 6 phút sau đó, lúc 02h22’ tàu Dragon đã đáp xuống Thái Bình Dương, hoàn tất chuyến trở về nhà.

Đây mới là nhiệm vụ tiếp tế đầu tiên của SpaceX Dragon lên trạm ISS, nó sẽ còn phải bay lên trạm thêm 11 lần nữa, và mang thêm 19 tấn hàng lên đó, theo hợp đồng trị giá 1,6 tỉ USD giữa SpaceX và NASA.

Trong một hợp đồng khác trị giá 440 triệu USD với NASA, đội ngũ kỹ sư của SpaceX đang tiến hành nghiên cứu nâng cấp Dragon trở thành phi thuyền có người lái, có thể đưa một vài phi hành gia lên vũ trụ và trở về. Ban lãnh đạo của SpaceX tin rằng họ sẽ sẵn sàng cho chuyến bay thử nghiệm có người lái đầu tiên vào vũ trụ vào khoảng năm 2015.



SpaceX Dragon ở chuẩn bị tách khỏi trạm ISS, trở về trái đất.

SpaceX Dragon vừa mới rời khỏi cánh tay robot và rơi vào không gian.
1:19 PM | 0 comments

Mặt trăng có thể từng là một phần của trái đất

Written By Unknown on 10.20.2012 | 11:18 AM

Trái đất và mặt trăng từng là một khối cầu trước khi trái đất va chạm với hành tinh khác, hai nhà khoa học Mỹ khẳng định.

Sarah Stewart và Matija Cuk tin rằng mặt trăng từng thuộc trái đất. Ảnh: ALAMY.
Nguồn gốc của mặt trăng và nguyên nhân khiến nó bay xung quanh trái đất là một trong những bí ẩn lớn nhất đối với giới khoa học trong nhiều thế kỷ. Giả thuyết được nhiều người chấp nhận nhất là: Khi hệ Mặt Trời ra đời, một hành tinh đã va chạm với địa cầu và khiến một lượng vật chất khổng lồ của hành tinh đó văng ra. Khối vật chất ấy xoay quanh trái đất và trở thành mặt trăng.
Matija Cuk, một nhà nghiên cứu của Viện SETI tại Mỹ, và giáo sư Sarah Stewart, một chuyên gia về hành tinh của Đại học Harvard, vừa công bố giả thuyết mới của họ về nguồn gốc của mặt trăng. Theo giả thuyết này, mặt trăng từng là một phần của trái đất. Khi trái đất va chạm với một hành tinh khác, vật chất của trái đất văng ra và tạo nên mặt trăng, Telegraph đưa tin.
Trong một bài báo trên tạp chí Science, Stewart và Cuk khẳng định giả thuyết của họ giải thích tại sao cấu tạo và thành phần hóa học của mặt trăng giống trái đất.
“Địa cầu xoay nhanh hơn rất nhiều vào giai đoạn mặt trăng hình thành và một ngày hồi ấy chỉ kéo dài hai tới ba giờ”, hai nhà nghiên cứu lập luận.
Do trái đất xoay quá nhanh, một vụ va chạm giữa nó với thiên thể khác có thể khiến một lượng vật chất lớn văng ra.
Theo thời gian, trái đất xoay chậm dần tới vận tốc hiện tại nhờ tương tác hấp dẫn giữa quỹ đạo của nó quanh mặt trời và quỹ đạo của mặt trăng quanh nó.
Minh Long
11:18 AM | 0 comments

Cỗ máy lớn nhất hành tinh bị kiện

Lo ngại máy gia tốc hạt lớn có thể tạo ra các hố đen và hủy diệt trái đất, một phụ nữ Đức kiện cỗ máy ra tòa với hy vọng nó sẽ ngừng hoạt động.

Nhiệm vụ chính của máy gia tốc hạt lớn là tạo ra những điều kiện ban đầu giống như thời kỳ vũ trụ mới hình thành để tìm hiểu chi tiết sự hình thành của vật chất. Vì thế mà nó được mệnh danh là "cỗ máy tạo hóa". Ảnh: Wired.
Large Hadron Collider (LHC), có trị giá tới 6,2 tỷ USD của Trung tâm Nghiên cứu Nguyên tử châu Âu, là cỗ máy gia tốc hạt hiện đại nhất và lớn nhất thế giới hiện nay. Nó được thiết kế để tạo ra va chạm trực diện giữa các tia proton (một trong những loại hạt cơ bản) với động năng cực lớn. Chiếc máy nằm trong một đường hầm nằm ở độ sâu 100 m dưới mặt đất ở khu vực biên giới giữa Pháp và Thụy Sĩ. Đường hầm có đường kính 3,8 m, có cấu trúc bê tông và được xây dựng từ năm 1983 đến 1988.
Song nhiều người lo ngại LHC có thể tạo ra các hố đen siêu nhỏ - dạng vật chất có khả năng hủy diệt trái đất. Vì thế họ kêu gọi Trung tâm Nghiên cứu Nguyên tử châu Âu (CERN) ngừng vận hành cỗ máy. Mới đây, một phụ nữ tại thành phố Muenster, Đức đã đệ đơn lên tòa án hành chính tại Đức và Thụy Sĩ để biến lời kêu gọi thành hiện thực, Physorg đưa tin.
"Dựa vào những báo cáo an toàn của CERN từ năm 2003 tới 2008, chúng tôi kết luận rằng máy gia tốc hạt lớn LHC không thể gây nên bất kỳ mối họa nào trên phương diện khoa học", tòa án hành chính tại thành phố Muenster tuyên bố.
Một tòa án hành chính tại Thụy Sĩ cũng đưa ra phán quyết tương tự đối với đơn kiện của người phụ nữ Đức.
Các chuyên gia khẳng định LHC không thể tạo ra hố đen. Trong trường hợp nó tạo ra hố đen siêu nhỏ, chúng sẽ chỉ tồn tại trong khoảng thời gian từ một phần nghìn tỷ tới một phần triệu giây rồi biến mất. Trong khoảng thời gian vô cùng ngắn đó, các hố đen siêu nhỏ không thể gây nên bất kỳ tác động nào.
Vào tháng 7 vừa rồi, CERN gây chấn động thế giới khi họ công bố một loại hạt có các tính chất giống hạt Higgs, hay còn được gọi là "hạt của Chúa". CERN cho biết, các nhà vật lý của họ đã phát hiện một loại hạt mới nhờ hai thử nghiệm trong máy gia tốc hạt LHC.
Minh Long
10:41 AM | 0 comments

Robot phát hiện vật thể lấp lánh trên sao Hỏa

Written By Unknown on 10.11.2012 | 10:09 AM

Thiết bị thăm dò tự hành Curiosity ngừng phân tích đất trên sao Hỏa sau khi những người điều khiển phát hiện một vật thể lấp lánh gần vị trí của nó.

 Camera của Curiosity phát hiện vật thể sáng gần vị trí của nó. Ảnh: NASA.
Vật thể xuất hiện trong một bức ảnh mà Cơ quan Hàng không vũ trụ Mỹ (NASA) và Phòng thí nghiệm Sức đẩy phản lực (JPL). Vì thế các chuyên gia quyết định ngừng hoạt động phân tích đất để Curiosity chụp thêm ảnh về vật thể, AP đưa tin.
"Đó có thể là một linh kiện trong phần cứng của robot tự hành", JPL bình luận.
Sau khi bức ảnh về vật thể lấp lánh xuất hiện trên mạng xã hội Twitter, nhiều người đoán nó là hoa tai, đầu lọc của điếu thuốc lá, đinh ốc, đụn cát.
Một bức ảnh chi tiết hơn do máy ảnh ChemCam của Curiosity chụp cho thấy, có thể vật thể lấp lánh là mảnh nilon hoặc miếng băng cách nhiệt, NBC cho biết.
Curiosity đáp xuống bề mặt sao Hỏa vào ngày 6/8 và đã thực hiện một số công việc. Trong quá trình khám phá bề mặt hành tinh, nó chỉ để lại vết bánh xe và các lỗ do tia laser tạo nên. Hồi tháng 9 Curiosity phát hiện vô số viên sỏi tròn, nhẵn trong các vỉa đá - bằng chứng về sự tồn tại của suối trên hành tinh đỏ.
10:09 AM | 0 comments

Hai nhà khoa học Pháp và Mỹ đoạt Nobel Vật lý

Hai nhà khoa học mang quốc tịch Pháp và Mỹ đoạt giải Nobel Vật lý 2012 nhờ tìm ra những phương pháp quan sát các đặc tính kỳ lạ trong thế giới lượng tử.

Giáo sư Serge Haroche tại thành phố Paris. Ảnh: AP.
 Viện Hàn lâm Khoa học hoàng gia Thụy Điển hôm nay thông báo trao giải Nobel Vật lý cho Serge Haroche (Pháp) và David Wineland (Mỹ), AP đưa tin.
"Serge Haroche và David Wineland giúp giới khoa học thực hiện những thí nghiệm mới trong vật lý lượng tử bằng việc tìm ra cách quan sát các hạt lượng tử đơn lẻ mà vẫn giữ được các đặc tính của chúng. Những phương pháp mang tính đột phá của họ dẫn tới sự ra đời của những đồng hồ cực kỳ chính xác và giúp giới khoa học tạo ra những thành tựu đầu tiên trong nỗ lực chế tạo máy tính siêu tốc", Viện Hàn lâm Khoa học hoàng gia Thụy Điển tuyên bố.
Vật lý hạt là ngành vật lý nghiên cứu các hạt sơ cấp trong vật chất và bức xạ cùng những tương tác giữa chúng. Tính chất của các hạt sơ cấp thay đổi liên tục trong quá trình tương tác với các dạng vật chất trong môi trường xung quanh.
Dù nghiên cứu độc lập với nhau, song Haroche và Wineland, đều 68 tuổi, đã tìm ra những phương pháp quan sát hạt sơ cấp trong phòng thí nghiệm.

Nhà vật lý David Wineland. Ảnh: sohu.com.
 Giáo sư Haroche làm việc tại Cao đẳng Pháp và Cao đẳng sư phạm Pháp ở thành phố Paris. Wineland là một nhà vật lý của Viện Tiêu chuẩn và Công nghệ Quốc gia Mỹ. Ngoài ra ông còn làm việc cho Đại học Colorado tại thành phố Boulder, bang Colorado, Mỹ.
Hai nhà nghiên cứu đã sử dụng những giải pháp trái ngược để kiểm tra, kiểm soát và đếm hạt cơ bản, Viện Hàn lâm Khoa học hoàng gia Thụy Điển cho biết. Wineland "nhốt" các ion và đo chúng bằng ánh sáng. Trong khi đó, Haroche kiểm soát và đo các hạt ánh sáng (photon).
Haroche nói rằng ông nhận được tin vui từ Thụy Điển khi đang đi dạo cùng vợ.
"Tôi đang bước qua một ghế trên đường nên tôi có thể ngồi xuống ghế để nghe điện thoại. Cảm giác vui sướng tràn ngập tâm trí tôi", ông nói với các phóng viên trong một cuộc họp báo tại thành phố Stockholm bằng điện thoại.
Minh Long
10:08 AM | 0 comments

Cuộc chiến 100 triệu năm không dứt

Khi một con nhện chuẩn bị tấn công con ong bắp cày, chắc chắn nó không ngờ rằng cảnh tượng ấy sẽ được thiên nhiên lưu giữ tới cả trăm triệu năm trong hổ phách.
Con nhện chuẩn bị tấn công con ong bắp cày thì nhựa cây rơi xuống và nhốt cả hai con. Ảnh: Livescience.
 Livescience đưa tin các nhà khoa học của Đại học Oregon tại Mỹ phát hiện miếng hổ phách chứa xác con nhện, một con ong và 15 sợi tơ nhện trong một mỏ than ở Myanmar. Niên đại của miếng hổ phách vào khoảng 97 tới 110 triệu năm. Tư thế của các con vật cho thấy, một con nhện tới gần con ong để tấn công.
"Khi đó con nhện trưởng thành đang chuẩn bị ăn một con ong bắp cày, song nó không bao giờ thực hiện được ý định đó", George Poinar, một giáo sư sinh học của Đại học Oregon, phát biểu.
Poinar nói rằng con ong bắp cày đực đã sẵn sàng chống trả con nhện sau khi mắc vào tấm lưới của nhện. "Ong đang quan sát nhện thì nhựa cây rơi xuống và nhốt cả hai con vật", Poinar miêu tả.
Giới khoa học từng phát hiện nhiều miếng hổ phách chứa xác côn trùng, song họ chưa bao giờ thấy miếng hổ phách nào chứa bằng chứng về một cuộc chiến.
Cả con ong và hai con nhện trong miếng hổ phách đều thuộc về những loài đã tuyệt chủng. Nhưng con ong thuộc nhóm Cascoscelio incassus - bao gồm những loài sống ký sinh trong trứng nhện.
Minh Long
10:05 AM | 0 comments

Vì sao Nobel Vật lý không tôn vinh 'hạt của Chúa'?

Dư luận từng đoán giải Nobel Vật lý 2012 sẽ tôn vinh phát hiện mang tính đột phá về giả thuyết hạt Higgs, song các nhà vật lý không tỏ ra ngạc nhiên khi dự đoán đó chưa trở thành hiện thực.
Khoảng 5.000 nhà khoa học đã truy lùng hạt Higgs trong 45 năm qua. Ảnh: thebrowser.com.
 Hạt Higgs giúp loài người giải thích tại sao các hạt cơ bản (như quark, lepton, boson) có khối lượng – một đặc tính cho phép chúng liên kết với nhau nhờ lực hấp dẫn để tạo nên các ngôi sao, hành tinh, nước, đá, khí. Nếu các hạt cơ bản không có khối lượng, chúng sẽ chuyển động hỗn độn trong vũ trụ với vận tốc ánh sáng và chẳng tạo nên bất kỳ dạng vật chất nào. Trong trường hợp đó vũ trụ sẽ là một khối hỗn loạn giống như bát súp.
Một số nhà vật lý dự đoán sự tồn tại của hạt Higgs trong thập niên 60. Peter Higgs, một giáo sư vật lý của Đại học Edinburgh tại Anh, là một trong số những người ấy. Ông công bố giả thuyết về hạt Higgs vào năm 1964.
Vào mùa hè vừa rồi, các nhà vật lý của Tổ chức Nghiên cứu Nguyên tử châu Âu (CERN) thông báo họ tìm ra những hạt hạ nguyên tử có hạt Higgs trong Large Hadron Collider - máy gia tốc hạt lớn nhất thế giới. Đây là thành tựu lớn trong quá trình tìm kiếm “hạt của Chúa” trong suốt gần 50 năm. Vì thế một số người đoán Peter Higgs, 83 tuổi, sẽ nhận giải Nobel Vật lý. Nhiều người khác lại cho rằng Hội đồng Nobel nên tôn vinh các nhà vật lý tham gia nỗ lực truy tìm hạt Higgs của CERN.
Nhưng hôm 9/10, Viện Hàn lâm Khoa học hoàng gia Thụy Điển quyết định trao giải Nobel Vật lý năm nay cho hai nhà khoa học tìm ra những phương pháp quan sát trong thế giới lượng tử.
Tại sao Viện Hàn lân Khoa học hoàng gia Thụy Điển không chọn phát hiện của CERN để tôn vinh?
“Bây giờ chưa phải là thời điểm phù hợp để Hội đồng Nobel chọn lý thuyết về hạt Higgs”, Livescience dẫn lời George Smoot, một nhà vật lý của Đại học California tại Mỹ và là người đoạt Nobel Vật lý 2006.
Hội đồng Nobel thường trao giải cho những phát hiện khoa học từng diễn ra rất lâu. Năm ngoái Saul Perlmutter, Brian Schmidt và Adam Riess đoạt Nobel Vật lý nhờ phát hiện tốc độ giãn nở của vũ trụ đang tăng dần. Ba người phát hiện quy luật này từ thập niên 90.
Giới phân tích nhận định các nhà vật lý cần thêm một năm nữa để chứng minh hạt mới lộ diện trong Large Hadron Collider là hạt Higgs.
“Có thể hạt mới chính là hạt Higgs, song hiện tại người ta chưa dám khẳng định điều đó”, Smoot nói.
Ngoài ra, phát hiện của CERN được công bố vào mùa hè, quá muộn so với thời hạn chót dành cho các giải Nobel năm nay.
“Thông báo ấy tới quá muộn. Quá trình đề cử giải Nobel chính thức kết thúc vào ngày ngày 1/2. Người ta có nhiều cách để vận dụng linh hoạt các quy định, song rõ ràng những người ra quyết định trong Hội đồng Nobel cảm thấy họ không có lý do phù hợp để làm vậy trong trường hợp của hạt Higgs”, Frank Wilczek, đồng chủ nhân của giải Nobel Vật lý 2004, giải thích.
Wilczek thừa nhận ông không biết bất kỳ thông tin nào về quá trình ra quyết định của Hội đồng Nobel. “Song tôi nghĩ lý thuyết về hạt Higgs có thể được tôn vinh vào năm sau”, ông nói.
Minh Long
10:03 AM | 0 comments

Nobel Hóa học thuộc về hai người Mỹ

Hai nhà khoa học Mỹ đoạt Nobel Hóa học năm nay do tìm ra những protein giúp tế bào của cơ thể phản ứng với các tín hiệu từ bên ngoài.

Tiến sĩ Brian Kobilka (trái) và tiến sĩ Robert Lefkowitz (phải) sẽ chia sẻ khoản tiền thưởng 1,2 triệu USD của giải Nobel Hóa học. Ảnh: sciencewatch.com.
 Robert Lefkowitz và Brian Kobilka là tên của hai người Mỹ đoạt giải Nobel Hóa học 2012, AP đưa tin.
“Hai nhà nghiên cứu Robert Lefkowitz và Brian Kobilka đã tạo nên bước đột phá khi phát hiện nhóm thụ thể liên kết với protein G, tên của một nhóm thụ thể quan trọng”, Viện Hàn lâm Khoa học hoàng gia Thụy Điển tuyên bố.
Thụ thể liên kết với protein G (hay thụ thể bảy đoạn xoắn ốc, thụ thể uốn khúc hình rắn) là một họ protein lớn bao gồm những thụ thể màng sinh chất có khả năng cảm nhận được các phân tử bên ngoài tế bào. Sau khi phát hiện phân tử bên ngoài tế bào, thụ thể kích thích các quá trình truyền dẫn tín hiệu để tạo ra phản ứng thích hợp cho tế bào. Nhờ cơ chế đó, chúng giúp cơ thể phát hiện những thay đổi ở môi trường bên trong và bên ngoài.
Khoảng một nửa số dược phẩm trên thế giới tương tác với thụ thể bảy đoạn xoắn ốc. Vì thế việc nghiên cứu chúng sẽ giúp giới khoa học tìm ra những loại thuốc hiệu quả hơn.

Thụ thể bảy đoạn xoắn ốc có khả năng cảm nhận các phân tử bên ngoài tế bào. Ảnh: SPL.
 Tiến sĩ Lefkowitz đang làm việc tại Viện Y khoa Howard Hughes tại bang Maryland, còn tiến sĩ Kobilka là nhà nghiên cứu của Đại học Stanford.
"Đối với các chất truyền dẫn thần kinh và hoóc môn trong cơ thể, thụ thể bảy đoạn xoắn ốc giống như cánh cửa dẫn vào tế bào. Chúng điều khiển phần lớn những quá trình sinh lý của con người. Khi cơ thể người mắc bệnh, bác sĩ phải tìm cách điều chỉnh hoạt động của các thụ thể bảy đoạn xoắn ốc", Lefkowitz nói với các phóng viên tại cuộc họp báo của Hội đồng Nobel qua điện thoại.
Sven Lidin, một thành viên trong Hội đồng Nobel, minh họa vai trò của thụ thể bảy đoạn xoắn ốc bằng cảm giác sợ hãi.
"Khi con người cảm thấy sợ hãi, một tín hiệu hóa học sẽ di chuyển qua màng tế bào để tới hàng tỷ tế bào", Lidin nói.
Với quyết định của Viện Hàn lâm Khoa học Thụy Điển hôm nay, tổng số người nhận giải Nobel Hóa học đã tăng lên con số 163. Số tiền thưởng hiện nay của các giải Nobel là 1,2 triệu USD.
Minh Long
9:33 AM | 0 comments

5 dự án khoa học đắt đỏ nhất hành tinh

Written By Unknown on 4.12.2012 | 10:42 AM

Một nhóm chuyên gia quốc tế đã cùng nhau tìm hiểu chi phí của 5 dự án khoa học tốn kém nhất hành tinh. Dự án ít nhất trong số này cũng cần tới cả tỉ USD.

Trạm vũ trụ quốc tế (ISS): 157 tỷ USD

Đây là một tổ hợp công trình dành cho mục đích nghiên cứu không gian trên quỹ đạo cận trái đất, được coi là "vệ tinh" nhân tạo đồ sộ nhất từ trước tới nay. Năm cơ quan không gian của các nước Mỹ (NASA), Liên bang Nga (RKA), Nhật Bản (JAXA), Canada (CSA) và 10 trong số 17 thành viên của cơ quan vũ trụ châu Âu (EKA) cùng hợp tác để tạo dựng nên ISS.

ISS là trạm không gian lớn nhất được xây dựng từ trước tới nay. Ảnh: AFP.
ISS được coi là kết quả của sự hợp nhất hai dự án lớn, nhưng thiếu kinh phí để có thể thực hiện riêng biệt là trạm vũ trụ Tự do (Freedom) của Mỹ và trạm vũ trụ Hòa bình 2 (Mir-2) của Nga. Nó được khởi công xây dựng năm 1988 và dự kiến sẽ hoàn tất trong năm nay.
ISS là trạm vũ trụ duy nhất có người thường trực, thực hiện các công việc nghiên cứu. Nó cũng được coi là trạm dừng chân đa năng dành cho các chuyến bay giữa các vì sao trong tương lai. Thí dụ, theo dự kiến, chuyến bay đầu tiên có người lái lên sao Hỏa sẽ được tiến hành vào năm 2030. Thời gian bay từ trái đất tới đó và trở về là khoảng 500 ngày đêm. Vì thế, trên con tàu vũ trụ bay lên sao Hỏa dứt khoát phải có một nhà kính riêng để cung cấp cho các phi hành gia các vitamine, vi chất và các chất xơ.
Hiện nay trên ISS đã có nhà kính Lada đảm bảo các điều kiện giống hệt như trên mặt đất cho các thực vật sống trong điều kiện không trọng lượng. Tuy nhiên chỉ có thực vật mới có thể sống mà không cần tới lực hấp dẫn.
Máy gia tốc hạt lớn (LHC): 10 tỷ USD
Đây là máy gia tốc hạt lớn nhất và cung cấp gia tốc mạnh nhất thế giới ở thời điểm hiện nay. Nó được thiết kế để tạo ra va chạm trực diện giữa các tia proton (một trong những loại hạt cơ bản) với động năng cực lớn. Mục đích chính của nó là phá vỡ những giới hạn và mặc định của mô hình chuẩn - những lý thuyết cơ bản hiện thời của vật lý hạt.
Trên lý thuyết, chiếc máy này được cho là sẽ chứng minh được sự tồn tại của hạt Higggis. Những kết quả nghiên cứu từ LHC có thể chứng minh những dự đoán từ trước cũng như những liên kết còn thiếu trong mô hình chuẩn, và giải thích được những hạt sơ cấp khác có được những đặc tính như khối lượng như thế nào.

Máy gia tốc hạt lớn. Ảnh: hackedgadgets.com.
Về bản chất, LHC là kính hiển vi khổng lồ, do Tổ chức Nghiên cứu Hạt nhân châu Âu (CERN) chế tạo. Nó được chứa trong một đường hầm vòng tròn với chu vi 27 km, nằm ở độ sâu từ 50 đến 175 m dưới mặt đất. Đường kính hầm là 3,8 m, có cấu trúc bê tông, được xây dựng trong các năm từ 1983 đến 1988.
Đường hầm này có 4 điểm chạy cắt qua biên giới Pháp – Thụy Sĩ, giữa núi Jura và dãy Alps gần thành phố Geneva, với phần lớn nằm trên nước Pháp. Trên mặt công trình bao gồm rất nhiều thiết bị hỗ trợ như máy nén, quạt gió, các thiết bị điện tử điều khiển và các thiết bị làm mát được đặt nằm bên dưới mặt đất.
Dự án xây dựng LHC được cung cấp kinh phí và chế tạo với sự tham gia cộng tác của trên tám nghìn nhà vật lý của 15 quốc gia cũng như hàng trăm trường đại học và phòng thí nghiệm.
Mặc dù trên các phương tiện truyền thông hay thậm chí tòa án có nhiều thắc mắc về tính an toàn của máy LHC, các nhà khoa học đều đồng quan điểm rằng các thí nghiệm va chạm hạt của chiếc máy này sẽ không gây ra nguy hiểm nào.
Kính thiên văn không gian James Webb (JWST): 6,8 tỷ USD
Đây là kính thiên văn vũ trụ, thay thế cho kính thiên văn Hubble. JWST mang tên nhà khoa học James E. Webb (1902-1992), vị Giám đốc thứ hai của NASA (từ năm 1961 tới năm 1968).
Theo dự kiến cũ, JWST sẽ đưa vào hoạt động trong không gian bằng tên lửa Ariane-5 vào khoảng tháng 9/2015. Tuy nhiên, những tính toán mới cho thấy, có thể nó sẽ được đưa vào không gian không sớm hơn năm 2018. Kinh phí dành cho nó sẽ lớn hơn dự kiến ban đầu tới 4 lần!
Kính thiên văn James Webb. Ảnh: NASA.
JWST là kính thiên văn làm việc với dải hồng ngoại, có nhiệm vụ săn tìm những thiên thể tối, nhỏ và mờ nhạt vốn rất khó tìm thấy với điều kiện thông thường. Ngoài ra, nó cũng quan sát những vật thể phát ra bước sóng lệch về phía hồng ngoại, hoặc các vật thể bị che khuất bởi các vụ nổ trong vũ trụ.
Bộ chống nhiễu của nó bao gồm 5 tấm phim lọc, làm từ hợp chất giữa nhôm và polymer, dùng để chống lại ảnh hưởng của ánh sáng mặt trời. Một khi JWST được đưa vào hoạt động, vũ trụ sẽ hiện hình trước mắt các nhà thiên văn học với những đường nét chi tiết và tinh tế hơn trước rất nhiều.
Gương hội tụ của JWST có 18 tấm gương lục giác có đường kính mỗi tấm là 1,3 m. Mặt sau được làm mòn bằng axit để loại trừ các kim loại lạ có thể bám vào. Các tấm gương này sẽ hội tụ ánh sáng mạnh hơn kính thiên văn Hubble đến 7-8 lần.
Hệ thống đánh lửa quốc gia (NIF): 4,2 tỷ USD
Người Mỹ đã mất 12 năm để xây dựng nên công trình thử nghiệm tạo ra phản ứng nhiệt hạch nhờ sử dụng tia laser. NIF thuộc Bộ Năng lượng, được đặt ở California. Tiến hành các nghiên cứu tại đó là các nhà khoa học từ Viện Thí nghiệm quốc gia Livermore mang tên nhà vật lý Mỹ nổi tiếng Ernest Lawrence. Giám đốc dự án này là ông Edward Moses. Công việc xây dựng NIF được thông báo hoàn tất vào ngày 31/3/2009.
"Trung tâm đánh lửa", đó là một khu nhà rộng hơn hai sân vận động cộng lại. Bên trong đó là một camera hình cầu với đường kính 10 m. Ở bên trong camera đó là một quả cầu hiển vi nhỏ xíu với đường kính gần 2 mm. Trong quả cầu có 150 mcg hợp chất deuteri và triti. Đó chính là loại hợp chất được sử dụng trong bom khinh khí.
Ảnh: Maps.vnqconline.
Các nhà khoa học phóng tới quả cầu siêu nhỏ 192 tia laser công suất tới 500 nghìn tỉ oát, tức là gấp một nghìn lần năng lượng mà cả nước Mỹ sử dụng trong một năm. Các tia laser làm nóng quả cầu lên tới mức áp suất bên trong nó lớn gấp 100 tỉ lần áp suất ngoài trời và nhiệt độ nhảy lên mức 100 triệu độ C (ở trung tâm mặt trời nhiệt độ cũng chỉ ở mức 15 triệu độ C). Kết quả là nảy sinh phản ứng nhiệt hạch. Một quả bom H nhỏ xíu sẽ nổ tung. Giống như sinh ra một ngôi sao tí hon mới.
Cho tới hiện nay, các nhà nghiên cứu mới tạo được ngôi sao tí hon cháy sáng trong một phần tỉ giây. Chắc chắn phải mất rất nhiều công sức nữa mới có thể tạo nên một ngôi sao cung cấp năng lượng vĩnh cửu. Đó là một nhiệm vụ khó khăn nhưng về mặt lý thuyết, không “bất khả thi”.
Thống kê các loài dưới biển (CoML): hơn 1 tỷ USD
Từ năm 2000, một nhóm các nhà khoa học quốc tế đã bắt tay vào thực hiện dự án thống kê tất cả các loài sống dưới đáy đại dương, từ Bắc Cực cho tới các vùng nhiệt đới, từ các sinh vật phù du cho tới những con cá heo khổng lồ. Họ đã công bố kết quả lao động của họ vào mùa thu năm 2010. Theo đó, đã có tới gần 6 nghìn loài sinh vật dưới biển mới được phát hiện.

Một vật kỳ lạ có hình dạng khá giống loài chân giống khổng lồ Bathynomus giganteus. Ảnh minh họa: Reddit.
Các nhà khoa học cũng tìm ra, vi sinh vật chiếm từ 50 tới 90% các loài sống dưới đáy đại dương. Tổng khối lượng của sinh vật biển có thể sánh ngang với khối lượng của 240 triệu chú voi châu Phi cộng lại.
Loài sinh vật phổ biến nhất dưới đáy đại dương là động vật giáp xác (19%). Tiếp theo là động vật thân mềm (17%). Các loài cá, kể cả cá mập, chỉ chiếm 12%. Và chỉ có 2% sinh vật biển là thuộc dạng "các động vật có xương sống khác" - đó là các loại cá voi, sư tử biển, hải cẩu, rùa và hải tượng.
CAND
10:42 AM | 0 comments